Có những lời từng được viết bằng bút son, nhưng rốt cuộc lại bị vùi sâu dưới tro bụi triều chính. Khi Trung thư phủ áp lệnh tra xét Tuyết Dung Trai, bụi trên thư tịch chưa kịp lắng xuống thì một phần quá khứ đã bị kéo bật khỏi giấc ngủ dài. Trong mê trận lời nói và ánh mắt, chẳng ai biết đâu là thật, đâu là mồi nhử. Tấu chương bị giật rách, thân phận bị che lấp, những cái tên từng tồn tại bỗng bị gạch khỏi sổ tịch như chưa từng được sinh ra. Nhưng giữa những mảnh vụn tưởng chừng vô nghĩa, lại có kẻ lần theo được dấu chỉ của một tội trạng đã ngủ quên.
Đọc phần trước tại: Mộng Ảnh Trầm Phong – Phần 1
Hồi 3: Trầm Tấu Vô Âm – Vấn Tâm Chi Thư
Rạng đông sau đêm Vọng Nguyệt. Ánh sáng đầu tiên len qua rặng quế cổ thụ, thấm nhẹ vào mặt đá rêu xanh phủ đầy cánh hoa vàng rụng. Sương mỏng như tơ liễu, vắt ngang những bậc đá dẫn vào Tuyết Dung Trai. Cảnh vật tĩnh tại như tranh thủy mặc, nhưng trong gió đã có điều gì đổi khác.
Nguyệt Ca dậy từ canh tư, như bao ngày. Nàng quét nhẹ từng cánh quế còn đọng sương, dáng người thanh nhã dưới mái hiên cổ. Tửu Tửu chuyền từ cành xuống án trà, ngửi ngửi hộp gỗ chứa liên tử khô rồi lách qua góc rèm. Trời sáng chậm. Làn lạnh hôm nay lạ lùng, không phải cái lạnh của sương thu, mà như mang theo một vệt kim khí rất mảnh, vô hình nhưng khiến da thịt tê nhẹ.
Trên tầng gác, Tịch Vân lặng lẽ đứng tựa lan can, tay đặt hờ lên chuôi kiếm. Ánh mắt hắn phóng về phía xa, nơi cuối con đường mòn xuyên qua rặng trúc. Trong sương, bóng người thấp thoáng hiện dần, áo giáp, giáo dài, cờ xí đỏ sẫm.
Một tiểu học nữ từ viện dưới chạy vào từ cổng nhỏ phía sau, sắc mặt vội vàng:
“Nguyệt tỷ ! Có người của Trung thư phủ tới ! Họ đang tiến thẳng về phía cổng chính !”
Chỉ trong nửa tuần trà, tiếng vó ngựa đã dồn dập. Chim sẻ bay tán loạn khỏi mái ngói, tiếng kim loại va chạm vang rền phía cổng ngoài, từng nhịp sắt nặng như đập thẳng vào lòng đất.
Một tiếng quát sắc như lưỡi dao:
“Mở cổng ! Trung thư phủ mang lệnh lục soát Tuyết Dung Trai !”
Cánh cổng gỗ lim kêu rền dưới nhịp gõ bạo liệt. Sương mai chợt loãng đi, gió lặng hẳn. Trên nền đá, một vệt máu khô còn sót lại từ hôm qua hiện rõ dưới ánh sáng nhạt, vết thương nhỏ của Tửu Tửu do va phải cạnh hòm trà. Nguyệt Ca lau đi, thì thầm như nói với chính mình:
“Từ nay, sẽ không chỉ còn lại vết mực cũ…”
Nàng khẽ ra hiệu bảo Tửu Tửu vào trong, tay vẫn đang cầm cây chổi tre dài. Từ bậc thềm nhìn ra, hàng giáo bạc đã dựng thành thế trận trước cửa. Trên kỳ hiệu đen viền đỏ là dấu ấn uy quyền của Trung thư đại giám.
***
Cổng mở ra giữa tiếng bản lề rền rĩ. Quân lính nhanh chóng giăng thành hàng trước cổng Tuyết Dung Trai. Có khoảng ba bốn chục người, kẻ nào cũng mang giáp mỏng, bên hông dắt kiếm, mặt không đổi sắc.
Dẫn đầu là một nam nhân thân hình cao gầy, mắt nhỏ, mũi khoằm, râu mép chỉa xuống như gai nhọn, bên hông không đeo kiếm mà là trượng lệnh bằng gỗ đàn hương khảm vàng. Hắn không xuống ngựa ngay mà nhìn quanh viện, ánh mắt quét qua từng dãy mái ngói rêu phong như thể lột trần từng viên gạch. Khi bước xuống, đôi ủng đen giẫm lên bậc đá cổ phát ra tiếng “cộp” khô lạnh.
“Tuyết Dung Trai, danh bất hư truyền… Thanh tịnh đến mức làm người ta ngại gõ cửa.”
Nguyệt Ca bước ra từ hiên bắc. Nàng mặc áo lam nhạt, tóc vấn cao cài trâm gỗ tử đàn. Hôm nay nàng không son phấn, dáng uyển chuyển, ánh mắt trong như mặt hồ sớm thu.
Gã kia bước gần lại, tay giơ thẻ bài lệnh có ấn Trung thư đại giám, giọng ngả ngớn:
“Tại hạ Cận Hoài, giám sát sứ. Nay phụng mật chỉ đến kiểm tra thư tịch lưu giữ tại nơi này. Mong cô nương phối hợp.”
Nàng đứng thẳng, cúi chào đúng lễ:
“Tuyết Dung Trai là thư khố đặc biệt, nếu đại nhân mang theo kim bài, xin cứ theo lệ mà làm.”
Ánh mắt gã quét ngang người nàng như rắn lượn. Khi đến sát hắn hít nhẹ, miệng khẽ nhếch, thì thầm:
“Thơm thật… không ngờ một nơi lặng lẽ thế này… lại có người đẹp như ngọc giấu giữa rừng. Cô nương không sợ đám quan binh này làm rối chốn thanh tu sao ? Không rõ… cô nương họ gì, bao nhiêu tuổi ?”
Nguyệt Ca đáp, giọng bình thản:
“Ta chỉ là người giữ sách, không đáng để ngài bận tâm.”
“Người giữ sách mà nhan sắc hơn tranh vẽ thế này, ta lại tưởng là tiên trong mộng.”
Hắn cười khẩy, tiến thêm một bước. Tay phải chực vươn ra nhưng chưa chạm đến vạt áo nàng thì một tiếng động sắc lạnh đã vang lên, Tịch Vân từ bậc thềm bước xuống, tay đã đặt trên chuôi kiếm.
“Lui tay ra !” – Giọng hắn không lớn, nhưng vang như tiếng đá lăn từ đỉnh núi. Cận Hoài thoáng khựng lại, rồi bật cười:
“Ai đây ? Một kẻ thấp hèn mà dám lên tiếng dọa người của Trung thư phủ ?”
Tịch Vân không trả lời, ánh mắt hắn không nhìn Cận Hoài mà nhìn thẳng vào bàn tay chưa kịp thu về. Cận Hoài xoay cổ tay, vờ như phủi bụi trên áo. Gã bước lùi nửa bước, nhưng giọng vẫn đều:
“Được… Dù sao ta cũng không nỡ làm bẩn xiêm y người đẹp. Bắt đầu lục soát !”
Lệnh ban ra, binh lính lập tức chia nhóm tràn vào các phòng sách. Giá gỗ đổ rầm rập, thư bản bị giật tung khỏi bìa, từng trang giấy cổ bay tán loạn giữa sương sớm. Tiếng giấy rách xen lẫn tiếng binh khí va vào bàn ghế.
Cận Hoài bước tới một kệ sách lớn, đạp mạnh chân làm cả giá đổ xuống. Một tập bản sao cũ văng ra rơi nghiêng trên nền đá, vừa khéo chạm vào chân Tịch Vân. Hắn cúi xuống nhặt, lật xem. Giấy đã ngả vàng, mực phai đôi chỗ, mở ra chỉ là vài hàng chữ tâu việc dời lịch thu thuế ở châu Tĩnh Hà. Cận Hoài nhìn sang Nguyệt Ca, ánh mắt lóe lên:
“Cô nương, tên này là ai ? Có vẻ như hắn đang muốn xen vào chuyện của bổn quan.”
“Khách qua đường, đang chép lại thư tịch.” – Nguyệt Ca đáp gọn.
“Trông không giống học sĩ, càng không giống khách.”
“Vậy theo Cận đại nhân… ta giống ai ?” – Tịch Vân cười nhạt.
Cận Hoài không đáp. Hắn trợn mắt phẩy tay ra hiệu cho đám lính:
“Tra soát toàn bộ phòng phía Tây và Đông. Không được bỏ sót một tờ giấy !”
***
Giữa thư phòng, ánh sáng sớm chỉ vừa đủ rọi lên mép bàn gỗ lim khảm trai. Tịch Vân đứng dựa cạnh án thư, ánh mắt dõi theo từng động thái của quân lính đang lục lọi. Tiếng giấy bị xé, tiếng gỗ va chạm bắt đầu vang lên dồn dập. Cận Hoài chắp tay đi dạo quanh phòng như thể đang thám hiểm một nơi cổ quái. Hắn dừng lại trước một kệ sách cao, đưa tay rút ra một cuốn.
“Ta nghe nơi này từng là Tàng Ngữ Viện triều trước. Liệu… có đơn giản chỉ là giữ thư chỉ của nội cung ?” – Hắn hỏi, giọng như gió lướt qua cành khô.
Nguyệt Ca đáp, mắt không rời hắn:
“Tàng Ngữ Viện xưa kia có nhiệm vụ lưu giữ thư từ, tấu chương, thi thư của các triều. Nay là Tuyết Dung Trai, vẫn giữ lệ cũ.”
“Lệ cũ ? Cũ đến mức rêu mọc đầy chữ, nhưng không chắc ai đọc cũng hiểu.” – Hắn ném cuốn sách trở lại, cười nhạt. – “Có tin báo lại rằng, người trông coi Tuyết Dung Trai này từng không rõ lai lịch. Ngụ tại đây suốt bảy năm, không giấy tịch, không họ tên ghi chép. Cô nương họ gì ?”
“Ta họ Dung. Tên chữ Nguyệt Ca.”
“Dung Nguyệt Ca… chưa từng nghe. Quê quán ở đâu ?”
“Vĩnh An phủ.”
“Vĩnh An ? Mấy năm nay loạn lạc nhiều, không biết gia đình cô đã từng… dính dáng gì đến các vụ án cũ ?”
“Dân thường, thư sách, có gì mà dính dáng ?” – Nàng đáp, mặt không biến sắc.
Cận Hoài nhướng mày:
“Dân thường mà sống ở đây ? Được giữ cả kho thư tịch từng là bí tàng của triều đình ?”
Nguyệt Ca không động sắc mặt:
“Tuyết Dung Trai xưa nay không luận quý tiện, bất kể là thường dân hay quan lại, chỉ cần lòng mang chính khí, một dạ trung thành với xã tắc, đều có thể đảm đương trọng trách. Đây là ý chỉ của Tiên đế khi còn tại vị, vẫn còn lưu trong án gỗ phía đông. Ta cũng nhờ di chiếu ấy mà được chọn trông coi thư khố nơi này.”
“Di chiếu ?”
Cận Hoài nhướng mày. Một tên lính lập tức chạy về phía góc phòng phía đông, lục tung hòm gỗ. Lát sau, y mang ra một tráp sơn son chạm khắc hình mai rùa, bên trong có cuộn lụa đã ố. Hắn mở ra, cẩn trọng đưa cho Cận Hoài, dòng chữ “Tàng Ngữ Viện được miễn điều tra, tra xét vô cớ là tội kháng chỉ” được viết bằng ngự bút, vẫn rõ như ngày nào.
Gã nhìn lướt, sắc mặt chợt trầm xuống:
“Thật sự có ấn ngọc… là dấu lục long.”
Nguyệt Ca nói tiếp:
“Tiên đế thuở nhỏ từng học ở đây, được Tàng Ngữ Viện dạy dỗ. Nơi này được ban chỉ dụ bảo hộ, không chịu sự tra xét thường lệ. Điều ấy, quý phủ hẳn không lạ.”
Cận Hoài gập chầm chỉ dụ lại, ánh mắt không còn thong dong như trước. Gã nhìn sâu vào mắt nàng:
“Ngươi có vẻ biết nói chuyện, nhưng càng như thế ta càng thấy lạ. Bảy năm không có danh phận, lại trấn thủ một kho triều thư, cớ gì không ghi tên vào sổ phủ ?”
Tịch Vân lạnh lùng chen lời:
“Thế Trung thư phủ có sổ ghi ai là gian thần, ai là trung lương chăng ? Lệnh này của Tiên đế, dù là Trung thư phủ cũng không thể làm khác.”
Không khí chợt như sắp bùng lên. Cận Hoài quay ngoắt lại:
“Ngươi muốn chống lại lệnh của Trung thư phủ ?”
“Ta chỉ thấy lạ. Lục soát một thư viện mà đem theo hơn bốn mươi binh lính như vào đất phản loạn. Là Trung thư phủ đang làm việc, hay đang diễn trò ?”
Một tên lính tiến lên, giận dữ chỉ tay vào Tịch Vân:
“Ngươi là ai mà dám lăng mạ phủ giám ?”
Tịch Vân chưa kịp đáp, Cận Hoài đã vung tay:
“Lui ra !” – Gã quay sang Nguyệt Ca:
“Được rồi. Dù có chỉ dụ đi nữa, ngươi vẫn là kẻ tình nghi. Ta sẽ bẩm báo lại đại nhân. Còn tên kia…”
Hắn liếc Tịch Vân, nhếch mép cười lạnh:
“Nhìn bộ dạng hắn… ta đoán cũng thuộc hạng trôi sông lạc chợ. Thứ không có gốc rễ thì dù có đeo kiếm, mặc áo sạch đến mấy… vẫn lộ ra cái mùi người ta không dạy được.”
Tịch Vân siết chặt chuôi kiếm, cơn phẫn nộ dâng cuồn cuộn tựa triều dâng nhưng y ép nó chìm xuống tận đáy mắt. Ánh nhìn hai người giao nhau chớp nhoáng như hai lưỡi thép vừa chạm đã sượt qua, để lại một vệt lạnh rợn người. Khóe môi Cận Hoài khẽ nhếch, độc ý rỉ ra thành nụ cười nham hiểm, sát khí trong mắt hắn đặc quánh như sương đen, lặng lẽ quấn chặt khắp gian tiền. Bên trong, tiếng binh lính lại vọng ra:
“Báo ! Có bản tấu kỳ lạ bị giấu sau giá tường !”
“Mang ra đây !”
Cận Hoài đón lấy. Tập giấy đã ngả màu, nhưng một góc có dấu đỏ tươi bất thường.
Nguyệt Ca biến sắc:
“Không được động vào bản ấy !”
Nàng bước nhanh lên một bước, tay dang ra che chắn. Tên lính vung tay đẩy nàng ra…
Rầm !!!
Thân ảnh Tịch Vân lướt tới, kiếm rời khỏi vỏ nửa tấc. Tên lính ngã ngửa xuống bậc đá, máu rỉ từ vai.
Không khí bùng nổ. Cận Hoài sửng sốt gào lên:
“Bắt lấy chúng !”
***
Tiếng gào chưa dứt, Tịch Vân đã kéo Nguyệt Ca lui lại một bước, thân hình chắn trước nàng. Binh lính áp sát nhưng không ai dám tiến thêm, mũi kiếm Trầm Phong vừa lóe lên, tia sáng sắc lạnh như xé đôi sương mù.
Tịch Vân khẽ nghiêng cổ tay, lưỡi kiếm trượt xuống như dòng nước chảy, ánh thép lạnh chạm mặt đất chỉ trong một nhịp thở. Tiếng bước chân dồn dập vang lên, một toán lính nữa xông tới. Không cần nhìn, hắn xoay người như bóng lụa trong gió, mũi chân khẽ điểm sàn, cả thân hình bật vút lên nhẹ như hạc vượt triều. Tấm áo xanh theo đà lật tung trong không trung, khi hạ xuống ba kẻ đã nằm rên la dưới đất, kiếm trên tay bị đá văng bay loang loáng trong không khí, găm thẳng vào các vách gỗ xung quanh. Một lưỡi cắm sâu vào cột lim cạnh bàn thư, một lưỡi khác cắm nghiêng lên cửa sổ đang hé mở. Thanh còn lại ghim thẳng vào giá sách trước mặt Cận Hoài, chỉ cách mắt hắn chưa đầy một gang tay. Mũi kiếm cắm xuyên mặt gỗ, đầu rung khẽ như đuôi rắn.
Cận Hoài không nhúc nhích, nụ cười tắt hẳn. Hắn sửng sốt nhìn vết kiếm cắm sát bên mình rồi liếc Tịch Vân, ánh mắt sâu thẳm như giếng cổ phủ rêu. Một giọt mồ hôi chảy thẳng xuống. Hắn nuốt nước miếng, môi run lên:
“Lui.” – Rồi ra hiệu cho quân lui lại nửa trượng. Không khí vẫn như giương cung chưa bắn.
“Các ngươi… sẽ không thoát được việc này đâu. Ta sẽ bẩm lại với Trung thư đại giám, rằng nơi này chứa người khả nghi, chống lệnh triều đình, lại giấu tấu thư cấm. Đến lúc đó, thì…” – Cận Hoài quay lưng, vạt áo phất qua nền gạch.
Binh lính rút lui trong im lặng như bóng rút khỏi tường, để lại sau lưng một cảnh tượng đổ nát: giá sách ngã nghiêng, thư tịch rơi vãi khắp sàn. Một tập tấu chương bị giằng đến rách mép, giấy lật phật lay theo làn gió lùa qua từ mái ngói xô lệch, mang theo âm thanh khô khốc như tiếng thở dài.
Nguyệt Ca đứng lặng giữa khung cảnh ấy, không nói một lời. Dưới ánh sáng nhợt nhạt, nét mặt nàng vẫn bình tĩnh, nhưng trong mắt lại ánh lên một tia sáng không dễ nắm bắt, giống như người vừa chạm phải điều gì thân thuộc, nhưng bị vùi chôn đã quá lâu trong ký ức.
Tịch Vân thu kiếm, ánh mắt khó lường:
“Tại sao cô lại phản ứng như vậy vì tập tấu ấy ? Trong đó có gì ?”
“Tấu chương đó… là văn bản viết tay của phụ thân ta từ thời Nguyên Đức.” – Nguyệt Ca ngẩng đầu, giọng không lớn, nhưng vững như một sợi dây cung đã kéo căng:
“Nội dung trong ấy từng được dâng lên nội các, nhưng đã bị cố tình xếp vào loại không lưu. Trong đó ghi lại những điều mà triều đình năm xưa đã cố ý lấp đi, tên người, sự việc, cả đường đi của quyền lực. Không phải ai cũng đọc được, càng không phải ai cũng muốn giữ nó lại. Ngay cả Tiên đế khi ấy cũng chỉ phê một chữ ‘hoãn’ rồi để mặc.”
Nàng dừng lại một nhịp, hít sâu như đang kìm nén điều gì.
“Nếu rơi vào tay Cận Hoài thì trên đời này sẽ không còn gì chứng minh được tội trạng của lũ gian thần đã che trời bằng tay. Bao năm qua, những gì phụ thân ta để lại đều đã bị xóa sạch. Cái ta giữ chỉ là một mảnh giấy cũ, nhưng là vết rạn cuối cùng trên mặt nạ của bọn họ.”
Cả hai rơi vào im lặng. Gió ngoài hiên khẽ lay, mang theo mùi ẩm của tàn tro cũ. Một lúc sau, Tịch Vân khẽ hỏi, giọng trầm thấp:
“Phụ thân cô là ai ? Rốt cuộc thân phận thật sự của cô là gì ?”
Nguyệt Ca không đáp ngay. Nàng quay mặt đi, bước được một quãng thì dừng lại, lưng vẫn quay về phía hắn. Giọng nàng nhẹ, nhưng lạnh như sương khuya vừa rơi xuống bậc đá:
“Đã bảy năm… có những thứ ta không thể quên, kể cả mùi máu loang trong tuyết.”
Tịch Vân nhìn nàng, lòng bất giác có cảm giác bất an. Hắn nhớ rất rõ… cũng bảy năm trước, máu cũng từng loang dưới chân hắn như vậy. Một ý niệm chợt lóe lên, Tịch Vân lặng lẽ quay đi, bước vào căn phòng chứa thư tịch phía tây.
Giữa đống giấy vương vãi, hắn nhặt lên một tờ tấu bị xé làm đôi. Trên mép còn sót một dòng chữ: “Vệ phủ – sổ hộ tịch bản sao – Nguyên Đức tam niên.”
Ánh mắt Tịch Vân tối sầm lại.
***
Tịch Vân cầm mảnh tấu đã rách, mắt dán chặt vào dòng chữ nhòe mực. “Vệ phủ – sổ hộ tịch bản sao – Nguyên Đức tam niên.” Một dòng đơn giản, nhưng như thanh kiếm đâm ngược vào trí nhớ. Hắn ngồi xuống giữa căn phòng tan hoang, bắt đầu lục lại những hòm gỗ bị xô lệch. Tay chạm vào từng tờ giấy cũ, từng bìa sách cháy sém mép. Giấy ẩm, mực phai, nhưng ký hiệu hành chính và nét khắc của triều Nguyên Đức không thể giả.
Chừng nửa canh giờ sau, hắn tìm thấy điều mình không mong muốn: một quyển sổ tịch đóng bìa da, gáy ghi: “Tứ hộ – Nam nội – Vệ phủ – Bản lưu thứ hai.” Mở ra, trang đầu còn nguyên, trang thứ hai cũng thế. Nhưng từ trang thứ ba, một dòng tên bị gạch đi. Bút tích khác hẳn nét còn lại, gượng gạo và vội vã. Nét mực phai ít hơn, không cùng thời gian với phần còn lại.
Dòng tên ấy viết: “Vệ Yên Cơ – trưởng nữ – sinh niên hiệu Nguyên Đức thập nhị.”
Tịch Vân sững người, ánh mắt ghim chặt vào dòng chữ mờ nhòe nơi cuối trang. Bàn tay hắn siết lấy mép quyển sổ tịch, các đốt ngón tay trắng bệch. Hắn lật trở lại trang trước, mắt quét qua con dấu đỏ son của quan huyện tiền nhiệm, vuông vức, đúng thể thức, rõ ràng là từ thời Vệ đại nhân còn tại vị. Nhưng con dấu ở cuối bản, nơi tên bị sửa thì không như vậy, méo mó, mực nhạt, viền ấn lún quá sâu, dấu hiệu của một bàn tay vội vàng, đầy toan tính.
“Vệ… Yên Cơ ?”
Hắn lẩm bẩm, và đồng thời nghe sau lưng vang lên tiếng bước chân rất nhẹ. Nguyệt Ca đứng ở ngưỡng cửa, im lặng nhìn hắn.
“Sao cô không nói với ta ?”
Một thoáng im lặng. Rồi nàng đáp rất khẽ, như sợ chính mình nghe thấy:
“Vì ta không biết ngươi là ai.”
Câu nói như một mũi kim lạnh cắm vào lồng ngực hắn. Giọng Tịch Vân nghẹn lại, mắt vẫn không rời gương mặt nàng:
“Cô là con gái Vệ đại nhân… người từng vì can gián thượng triều mà cả phủ bị diệt trong đêm tuyết năm đó ?”
“Ngươi biết chuyện đó à ?”
Hắn gật đầu:
“Ta từng là người của Chiêu phủ. Đêm đó… ta cũng mất tất cả.”
Nguyệt Ca khựng lại như có một giọt mực vừa rơi xuống giữa tâm khảm, lan chậm thành một vòng tròn không tan. Không phải tiếng gươm rút, không phải tiếng binh khí va chạm như bảy năm trước, mà là một câu nói nhẹ như gió, mà nặng như núi đổ. “Ta từng là người của Chiêu phủ.”
Một nhịp tim khẽ chệch đi, rồi trở lại. Nàng không giật mình, chỉ khẽ chớp mắt như phủi đi lớp tro bụi vừa rơi xuống. Trong đôi mắt tĩnh lặng ấy, thứ dao động duy nhất là một vệt mờ như bóng trúc nghiêng xuống mặt trà. Mùi tuyết xưa như trở lại, lành lạnh và lặng lẽ. Tiếng vó ngựa, tiếng gào cứu, cả tiếng đổ vỡ trong ký ức. Nguyệt Ca hạ mắt xuống, như người vừa nghe xong một bản đàn cũ. Bên trong lòng nàng, có một phần đang gào thét, một phần khác thì chỉ khẽ thở dài.
Người của Chiêu phủ.
Bảy năm… ba nghìn đêm, nàng vẫn ngỡ kẻ thù khoác giáp sắt, tay dính máu Vệ phủ. Giờ, kẻ đó lại đang đứng ngay trước mặt, với ánh mắt như đá lạnh đã bị gió mài mòn nhưng chưa tan. Nàng không nói gì. Chỉ là trong khoảnh khắc đó, mọi lời trong lòng đều đã lặng đi như một trang thư gấp lại chưa kịp viết dòng cuối.
Tịch Vân siết quyển sổ trong tay rồi bất ngờ đứng dậy bước thẳng về phía cửa. Nguyệt Ca lùi nhẹ một bước tránh lối. Nhưng khi hắn đi ngang bỗng khựng lại, giọng nói thấp và lạnh:
“Có người đã cố xóa tên cô. Nghĩa là… có kẻ không muốn cô tồn tại.”
Nàng nghiêng đầu nhìn hắn. Đôi mắt bình thản, nhưng trong đáy mắt lại là một tầng sương rất mỏng.
“Không chỉ một kẻ đâu.”
Ngoài trời, mây bị gió xé rách. Một vệt nắng xuyên qua lớp mờ đục chiếu xiên xuống sân đá nhuộm màu xám bạc. Gió thốc qua hành lang thổi tung rèm lụa khiến cả Tuyết Dung Trai rung lên như thoáng giật mình. Nhưng những bí mật thật sự… mới chỉ bắt đầu hé lộ.
Thất tải mai chân án,
Song tâm các nhiễm tàn.
Đồng đăng phi cộng ảnh,
Thùy thức cựu nhân nan ? ¹
Hồi 4: Tư Lục Ẩn Cơ – Lưỡng Diện Tàn Cục
Tuyết Dung Trai tĩnh lặng một cách bất thường. Bầu trời sáng xám, mùi ẩm mốc của sách cũ và tro bụi vương trong không khí. Qua biến cố, những giá sách nghiêng ngả được dựng lên, thư bản tạm được xếp lại nhưng không gì còn nguyên vẹn.
Trong thư phòng phía đông, ánh sáng từ ngọn đèn lồng mờ nhạt đổ xuống mặt bàn gỗ cũ, nơi Nguyệt Ca đang lặng lẽ pha trà. Bàn tay nàng thoáng run, nhưng động tác vẫn ung dung như cũ, tựa người đã quen giữ bình tĩnh trước gió lớn. Nắp ấm gốm xưa sủi tăm khẽ khàng, phát ra âm thanh nhỏ như tiếng thở dài vọng lại từ một đời khác, trầm và xa xôi, như quá khứ chưa từng rời khỏi. Tịch Vân ngồi đối diện. Hắn im lặng, ánh mắt nhìn vào mặt trà sóng sánh nhưng trong lòng lại như có tuyết cũ chưa tan. Bảy năm trước, cũng là mùa lạnh như thế. Hắn rời phủ chỉ nửa canh giờ để đuổi theo một bóng người lạ thoáng xuất hiện gần kho niêm mật rồi biến mất giữa rặng trúc. Lúc hắn trở lại, Chiêu phủ chỉ còn là biển lửa. Tro bay như cánh bướm trắng tàn, giẫm lên dấu chân của người cũ, xóa sạch cả tên lẫn bóng.
“Cô từng thấy gì đêm đó ?” – Hắn hỏi.
“Ta nghe tiếng ngựa, tiếng đổ vỡ, sau đó là tiếng kêu cứu. Người của Chiêu phủ phá cửa hậu, tất cả đều che kín mặt.” – Mắt Nguyệt Ca bỗng nhòe đi.
“Cô nói… là người của Chiêu Phủ ?” – Hắn khựng lại, giọng khàn đi như bị chặn ngang nơi cổ họng. Một thoáng, đôi mắt Tịch Vân chao đảo như vừa bị giáng một nhát vô hình.
“Không thể nào. Đêm đó chính Chiêu phủ cũng bị gán tội phản nghịch. Sao có thể đồng thời đi giết người ?”
Khoảnh khắc đó ánh mắt họ chạm nhau, ánh mắt của sự mỏi mệt cũ kỹ, như thể cả hai đã mang quá nhiều im lặng không tên, chất chồng suốt bảy năm dài.
Nguyệt Ca khẽ cất tiếng, giọng trầm như hỏi cả chính mình:
“Vậy… ngươi tới Tuyết Dung Trai, ban đầu là vì điều gì ?”
Tịch Vân nhìn nàng, đôi mắt khô khốc:
“Ta đến tìm bản sao thư tấu cuối cùng của Lục Uyên vương. Ta tin bên trong sẽ có manh mối gì đó…”
Nàng giật mình, hơi thở khựng lại trong khoảnh khắc.
“Lục Uyên… từng gặp phụ thân ta.”
Tịch Vân nheo mắt, thoáng ngạc nhiên:
“Cô biết chuyện đó ?”
Nguyệt Ca gật nhẹ, giọng thấp đi như kể lại một giấc mơ mờ:
“Khi còn nhỏ, ta từng thấy phụ thân giữ một vật nhỏ bằng ngọc. Dưới đáy có khắc chữ “Uyên”. Ông luôn giấu nó trong hộp gỗ, đặt cạnh một bức thư chưa bao giờ dán tên người nhận.”
“Nếu họ từng là đồng minh… thì chẳng có lý do nào để Chiêu phủ hạ sát Vệ phủ. Không loại trừ khả năng… có kẻ muốn cả hai phủ bị diệt tận gốc.” – Tịch Vân chậm rãi nói, như đang ghép lại những mảnh rời rạc trong lòng mình.
Gió chợt nổi lên. Một luồng gió mạnh lùa qua khe cửa hẹp, thổi tung một tờ thư họa cũ kỹ rơi khuất dưới bàn. Cả hai cùng nhìn theo.
Tờ giấy xoay trong gió rồi rơi xuống, lặng lẽ mở ra như một lời chứng của năm tháng, nét mực đã nhòe, nhưng vẫn thấy rõ dáng một người áo trắng ngồi đối ẩm cùng một nhân vật mặc triều phục lam, gương mặt kia, không lẫn đi đâu được, là Lục Uyên. Dưới góc tranh, dòng chữ khắc chìm hiện lên dưới ánh sáng nhàn nhạt:
“Nguyên Đức cửu niên – gặp gỡ không đề danh.”
***
Tịch Vân và Nguyệt Ca cùng trở lại kho sách phía tây, nơi lưu trữ các thư tịch không được phân mục, hầu hết là bản chép tay chưa kiểm, giấy mục mực phai, nhiều cuộn chưa từng mở lại suốt nhiều năm. Căn phòng vốn âm u lại vừa bị lục tung bởi binh lính, giờ càng lộn xộn. Mảnh giấy vương đầy sàn, vài giá sách ngã đổ, bụi phủ lên từng cuộn giấy như lớp tơ trời. Nguyệt Ca bật lửa đồng, ánh sáng vàng yếu ớt rọi xuống góc tường. Nàng kéo ra một hòm gỗ cũ, then khóa đã hoen rỉ.
“Nơi này từng là mục riêng của cha ta, dùng để lưu bản tấu không gửi hoặc bị trả lại. Nhưng ta chưa bao giờ dám mở.”
Tịch Vân không nói, chỉ gật đầu. Hắn dùng chuôi kiếm khẽ gõ, ổ khóa bật ra. Bên trong là một tập sách đóng bằng chỉ đỏ, mặt bìa không ghi gì ngoài hai chữ mờ mực: “Tư Lục.”
Họ cùng ngồi xuống. Nguyệt Ca nhẹ tay mở trang đầu, nét chữ nghiêng nghiêng, là bút tích của phụ thân nàng. Những hàng chữ được viết bằng thứ văn ngôn cổ xen lẫn ghi chú bằng pháp thư, kiểu ghi chép riêng để tránh bị tra xét. Tịch Vân lướt mắt qua vài dòng, dừng lại ở một ký hiệu. Hắn rút từ áo ra một tờ giấy nhỏ, bản đồ thám báo mà hắn từng sao lại trong Chiêu phủ. Ký hiệu đó là dấu hiệu nội gián.
“Đây là ám hiệu người của Chiêu phủ từng được cài trong nội cung. Xem này…” – Hắn đối chiếu một đoạn bên mép trái:
“Người ấy chưa thể lộ thân phận, nhưng từng truyền thư riêng ra núi Huyền Sơn. Nếu thư đến đúng người, sẽ là giao ước cuối cùng giữa hai phủ.”
“Huyền Sơn… chính là nơi phụ thân ta từng đi ẩn một tháng, trước khi đi phụ thân có trao lại thứ này.”
Nguyệt Ca nhíu mày, lặng lẽ rút từ túi áo một mảnh ngọc hình hoa mai, mặt sau có khắc chữ “Vệ – Cơ”.
Trong gian thư phòng lặng lẽ, ánh sáng từ đèn lồng chập chờn soi một phần gương mặt Tịch Vân. Hắn ngồi bất động, ánh mắt như nhìn xuyên qua bức tường giấy cũ, ngỡ ngàng bởi những điều vừa đọc được.
“Nếu những gì ghi trong “Tư Lục” là thật, thì ta… đã nhìn nhầm cả một đoạn đời.” – Hắn cất giọng, không hướng vào ai, như nói với chính mình.
Nguyệt Ca ngồi đối diện, tay đặt nhẹ lên tấm ngọc hoa mai bên cạnh. Không gian giữa họ vẫn còn âm hưởng mùi khói cũ, vừa là khói trà, vừa như khói của những năm dài bị lãng quên.
“Đêm ấy, ta không thấy gì rõ ràng, chỉ nghe loạn lạc khắp nơi. Trước khi ngất đi ta thấy những bóng áo giáp xông vào từ cổng bên, quân phục Chiêu phủ, nhưng giọng nói… là giọng của người miền Bắc. Phụ thân ta từng bảo Chiêu phủ không tuyển người vùng ấy, vì giọng họ khó giấu khi trà trộn.” – Nàng nói khẽ, mắt không rời ngọn đèn.
Tịch Vân siết nhẹ chuôi kiếm:
“Đêm đó ta cũng thấy đám lính mặc giáp Vệ phủ xuất hiện tại tiền viện Chiêu phủ. Nhưng khi đuổi theo, tất cả đều biến mất qua lối mật. Không kẻ nào để lại dấu hiệu gì… như thể cố ý để ta nhìn thấy rồi bỏ trốn.”
Họ cùng im lặng. Một lát sau, Nguyệt Ca nói:
“Có vẻ như bọn chúng hành động theo kịch bản đã định.”
Tịch Vân gật chậm:
“Mỗi kẻ sống sót, đều bị buộc phải tin vào một phần của câu chuyện, để không còn nhìn thấy toàn bộ ván cờ.”
Nguyệt Ca nhắm mắt, giọng trầm hơn:
“Sau khi tỉnh lại, ta được đưa thẳng đến Tuyết Dung Trai. Người cứu ta không nói gì nhiều, chỉ bảo rằng “Có ngày sẽ hiểu.”. Suốt bảy năm, ta tưởng ta đã hiểu. Nhưng giờ lại thấy mình có mắt như mù.”
Tịch Vân chậm rãi đứng dậy bước đến án thư cũ đặt sát vách, tay lật nhẹ mặt đáy đã được khoét rỗng từ trước. Từ bên trong, hắn rút ra một mảnh da dê mỏng đã vàng sậm theo năm tháng, cuộn gọn như thể chưa từng bị ai chạm đến.
“Đây là bản đồ cơ mật của kho mật tịch triều trước… ta đã tìm thấy từ sớm nhưng buộc phải giấu đi vì sợ rơi vào tay đám Cận Hoài.”
Hắn trải tấm da xuống, nét vẽ mờ nhưng tinh tế, như được vẽ bởi tay người không chỉ quen cầm bút, mà từng cầm cả kiếm. Ngón tay Tịch Vân dừng lại nơi một góc được vẽ sơ sài, không chú thích, chỉ có một dấu mực nhỏ như điểm nhãn lên tròng mắt cũ.
“Theo dấu này, sau bức tường kia có một ngăn bí mật. Không nằm trong ghi chép chính sử, càng không có trong sổ khố mới.” – Hắn gấp tấm bản đồ lại, tay chỉ sát mép chân tường nơi vữa xây lộ đường gợn rất khẽ.
Cả hai lặng lẽ nhìn nhau trong chớp mắt, rồi cùng xoay người đẩy lùi chiếc án thư áp sát tường. Một tiếng “rầm” khẽ vang lên khi mặt gỗ nặng trượt khỏi nền đá. Sau lớp bụi mờ là bức tường cũ hiện ra, và ở giữa, đúng như bản đồ chỉ dẫn, có một đoạn vữa thô lộ ra rõ ràng như một vết nối vụng về giữa hai niên đại. Tịch Vân không vội, hắn cúi thấp người, tay chạm nhẹ lên mặt tường, lòng bàn tay cảm nhận rõ từng khe nứt lạnh tê như mặt ngọc bị chôn lâu dưới đất. Một nhịp thở trôi qua. Hắn luồn tay vào yêu đới, rút ra một lưỡi dao mảnh dài rồi cẩn trọng cạy vào lớp vữa.
Nguyệt Ca đứng bên cạnh im lặng dõi theo. Ánh mắt nàng không hẳn là tò mò, mà là thứ cảnh giác từng chôn sâu nay khẽ lay động.
Một tiếng “cạch” khẽ vang lên, tựa như tiếng thở cuối cùng của bức tường cũ. Lớp vữa rạn ra, từng mảng nhỏ vỡ vụn rơi xuống để lộ bên trong một ống đồng mảnh dài, mờ ánh kim lẫn bụi xám. Chiếc ống nằm im lìm giữa khe đá, cả hai đầu bịt kín, trên bề mặt phủ một lớp bụi dày như tro nguội, tựa vật đã bị lãng quên từ một triều đại đã mất tên trong chính sử. Nguyệt Ca mở ra, kéo nhẹ một mảnh giấy cuốn tròn, bên trong là nét chữ quen thuộc, nét bút mạnh mẽ nghiêng về bên phải, chính là kiểu chữ của những người từng viết thư tấu triều đình.
“Năm xưa từng chịu ơn Vệ đại nhân, ta chỉ có thể báo đáp một phần trong biến loạn ấy. Chiêu phủ từng vì dân mà gánh tội, Vệ phủ từng vì nghĩa mà giữ lời. Nay ta lưu lại những gì còn sót lại nơi đây, chỉ mong người có duyên đọc được, giữ lòng thanh chính, nối lại ánh sáng của những kẻ đã khuất. Nếu ngày đó không đến, thì Tuyết Dung Trai sẽ là giọt cuối của ngọn đèn dầu. Người hiểu được, ắt sẽ biết mình phải làm gì.”
Không có tên, không có ấn, chỉ một dòng như lời trăn trối.
Tịch Vân nhìn nàng, ánh mắt tối lại:
“Trong lòng cô… vẫn cho rằng kẻ hại Vệ phủ năm xưa là người của ta ?”
Nguyệt Ca không né tránh, môi mím nhẹ:
“Ta không chắc. Nhưng nếu bảo hoàn toàn gạt bỏ được thù hận… thì ta không đủ rộng lượng.”
Tịch Vân khẽ cười, nhưng là nụ cười nghiêng lạnh:
“Cô vẫn còn nửa phần tin, nửa phần hận… Vậy chi bằng ta và cô đi điều tra một chuyến.”
Giữa đêm Vĩnh An Phủ, gió từ núi Tây Trúc thổi về khiến rặng trúc sau viện xào xạc. Trăng mỏng như lưỡi câu mắc giữa nền trời, soi một ánh bạc nhợt nhạt lên mái ngói rêu phong của Tuyết Dung Trai.
***
Cách Vĩnh An mấy trăm dặm, giữa lòng Giang Châu.
Kinh thành hoa lệ bậc nhất thiên hạ, đêm vẫn chưa chịu ngủ. Phố phường vẫn rực ánh lồng đèn, hàng quán ven sông còn bốc khói lẩu cay, tiếng cười nói của người qua lại hoà cùng tiếng mõ canh vọng về từ gác trống đầu thành. Những chiếc kiệu son đi ngang quảng trường vẫn rơi ánh vàng lên mặt gạch ướt sương. Bên ngoài đài quan sát, lính tuần phủ dập dìu đổi gác, sắc phục chỉnh tề như vảy thép.
Giữa dòng náo nhiệt đó, Trung thư phủ trấn giữa khu Đông thành như một pho tượng đá không biểu cảm. Bốn mặt tường cao lợp mái cong chạm trổ rồng vàng, cổng lớn tam trùng, hai hàng bạch ngọc lan tỏa hương ngát lạnh. Trong phủ, hành lang lát gỗ tử đàn uốn lượn quanh hồ sen khô cạn, tượng hạc đứng giữa sân vẫn phủ khăn lụa trắng, như câm lặng canh giữ điều không tên.
Phòng thư chính nằm phía hậu viện, tường bọc tơ tằm chống ẩm, đèn ngọc sáng suốt đêm. Trên kệ, hàng chục thỏi mực Quan Phong, giấy Tuyên Thành cuộn từng sấp, bàn gỗ trắc khảm ngà voi, một lư đồng tròn rỉ khói thác trầm.
Lăng Tư Khâm ngồi tựa nghiêng nơi chủ vị, tay lần chuỗi mã não đen bóng, áo bào rộng thêu hình phi long giấu nửa mặt. Mắt y nhìn qua cửa sổ chớp trúc khép hờ, nơi ánh đèn đường vẫn nhảy nhót dưới màn sương mỏng. Gương mặt nho nhã ấy, khi không cười thì lạnh như đá núi; khi cười, lại khiến người ta bất an như nghe tiếng rắn lột xác, nét mặt bình hòa mà ánh mắt lại như phủ sương độc.
“Ngươi nói… không tìm được gì ngoài vài bản mục thư cũ ?” – Hắn hỏi, giọng mỏng như tơ giấy nhưng lạnh hơn gió đêm.
Cận Hoài quỳ bên chiếu, dáng vẻ cung kính:
“Bẩm đại nhân, Tuyết Dung Trai quả thật trống trơn, văn bản cổ bị khóa riêng hoặc đã mục nát. Tuy nhiên… tiểu nhân phát hiện một điểm khả nghi.”
Lăng Tư Khâm hờ hững nhấc tách trà, khẽ nhấp một ngụm:
“Nói.”
“Trong số những người cư trú tại viện, có một kẻ lai lịch không rõ, nam nhân họ Tịch, ở lại sao chép văn thư, nhưng hành tung kín đáo, kiếm pháp bất phàm. Còn nữ nhân kia… tên gọi Nguyệt Ca, nhưng trong sổ tịch xưa không hề ghi ai như vậy.”
Lăng Tư Khâm không nói, chỉ khẽ gõ đầu ngón tay lên mép bàn. Một… hai… ba tiếng.
“Điều tra được gì rồi ?”
“Vẫn chưa rõ. Nhưng tiểu nhân có cảm giác… bọn họ biết nhiều hơn ta tưởng. Nhất là nữ nhân kia, ánh mắt không giống người chỉ quen với thư sách.”
Lăng Tư Khâm đặt tách trà xuống, ánh mắt lóe lên tia sáng kỳ dị:
“Có vẻ… con cá trong hồ yên tĩnh quá lâu, nay bắt đầu ngoi lên thở.”
Hắn đứng dậy, bước đến trước bức bình phong vẽ chim đan giữa rừng tuyết, tay khẽ vén lên. Sau đó lấy ra một ống lệnh sơn đen khắc hình song long giao đầu.
“Giao thứ này cho Vũ Hành. Bảo hắn… đi săn hươu. Đừng để lại vết máu trong sân.”
Cận Hoài cúi đầu, nhận lệnh rồi biến mất vào bóng đêm.
***
Đêm đó, tại Tuyết Dung Trai.
Tịch Vân không ngủ. Hắn ngồi bên bàn gỗ lim trong thư phòng nhỏ phía tây, bàn tay đặt trên bản đồ trải rộng, nhưng thần sắc không có vẻ đang đọc. Bên cạnh là thanh Trầm Phong, vỏ kiếm phản chiếu ánh lửa như nhịp thở thầm lặng.
Đột nhiên, một bóng người lướt qua hành lang, nhanh, sát vách, nhẹ đến mức chỉ kẻ từng trải qua chiến trường mới nhận ra. Không phải lính tuần canh. Không phải cư dân trong viện. Bóng đen vừa vụt qua góc mái lại bất ngờ dừng lại như nghe động. Tịch Vân lập tức dập tắt đèn, ngón tay lướt qua chuôi kiếm. Một làn khói mỏng như sương xuân bất chợt trườn qua khe cửa. Hắn không do dự. Lưỡi Trầm Phong lóe lên xé toạc cánh cửa gỗ, kẻ kia lập tức bật lùi, thân ảnh cuộn mình như khói phóng qua hành lang đá mà không để lại tiếng động.
“Kẻ nào !” – Tịch Vân quát, thân hình bắn ra như bóng kiếm, lao theo không chút do dự.
Tiếng động đánh thức Nguyệt Ca, nàng vội khoác áo chạy ra. Đuốc trước hành lang được thắp lên, ánh sáng chập chờn soi rõ vết chân bùn còn in ướt trên đá, một dấu vết gấp gáp, chưa kịp xoá.
“Có kẻ đột nhập.” – Hắn lạnh giọng, mắt vẫn dõi về phía rặng trúc.
Nguyệt Ca nắm chặt mảnh ngọc hoa mai. Trong khoảnh khắc đó, gió đêm rít qua song cửa, mang theo mùi rất khẽ… mùi thuốc tê.
“Không phải trộm. Là sát thủ”. – Nàng nói.
Tịch Vân gật đầu, ánh mắt đã sẫm màu như thép mài. Ngoài rặng trúc sau viện, một vệt máu kéo dài trên phiến đá lạnh, nhỏ nhưng rõ ràng. Không tiếng kêu, không dấu giằng co. Chỉ có trăng treo lặng lẽ trên mái cũ, soi xuống như nhìn thấu tất cả.
***
Trời chưa sáng hẳn, song ánh bạc đầu tiên đã bắt đầu len vào chân trời phía đông. Mặt đất còn đẫm sương, từng phiến đá lát sân vẫn mờ khói ẩm. Trong thư phòng phía tây, lò than đã nguội, đèn chong từ đêm trước vẫn lập lòe ánh cam. Tịch Vân đứng quay lưng về phía cửa sổ, tay vuốt dọc sống kiếm Trầm Phong đặt ngang bàn. Ánh mắt hắn đăm chiêu, không hướng vào bất cứ đâu, như thể đang lần lại từng mảnh trí nhớ trong đầu.
“Vết máu dẫn về phía tường bắc. Dưới thềm có dấu gạch bị xê dịch.” – Giọng Nguyệt Ca vang lên sau lưng, nhẹ nhưng rõ.
Tịch Vân không quay lại. Một lúc sau, hắn hỏi:
“Tường bắc nối thẳng ra sau núi. Nếu là thích khách chuyên nghiệp, hắn không thoát lên mái, mà đào đường sau vườn trúc.”
Nguyệt Ca gật nhẹ, tay nàng đang cầm một mảnh vải lụa đen bị xé rách, thứ vừa tìm được trong rặng trúc. Trên đó dính thứ bột màu xám ngà, là tro trầm hương thượng hạng.
“Mùi hương này… là loại chỉ có trong thư phòng của quan tứ phẩm trở lên, hoặc cung thất.” – Nàng đưa tay lên mũi, cau mày. – “Hắn đến từ nơi quyền quý.”
Tịch Vân cầm lấy mảnh vải đen, nhìn thật kỹ:
“Không giống thổ phỉ. Ra tay không để lại dấu, rút lui không gây động. Đây là sát thủ được huấn luyện lâu năm. Càng như thế… càng chứng minh điều ta nghĩ không sai.”
“Có kẻ muốn chúng ta chết, trước khi tìm ra sự thật.” – Nguyệt Ca tiếp lời, ánh mắt nàng lóe sáng rồi vụt tắt.
Họ đứng lặng trong giây lát. Gió sáng sớm len qua khe cửa, lay nhẹ dải lụa trắng treo bên án thờ Tàng Ngữ Viện. Một giọt nến nhỏ giọt xuống gờ bàn đá, phát ra âm thanh rất khẽ.
Tịch Vân bỗng lên tiếng:
“Nếu chỉ ngồi đây, sớm muộn gì chúng ta cũng sẽ trở thành tro như đống giấy kia.”
Nguyệt Ca khẽ gật đầu. Nàng xoay người bước về phía giá sách, tay mở ra một hộp gỗ cũ kỹ, lấy từ bên trong một cuộn bản đồ và một mảnh thư nhỏ đã úa màu thời gian.
“Đây là thư phụ thân ta từng gửi một vị cố tri, có nhắc đến việc giữ lại bản sao tấu chương thời Nguyên Đức. Cố tri ấy… hiện sống ở Bạch Mộc trấn, cách đây ba ngày đường.”
Tịch Vân nhìn nàng:
“Nếu khởi hành bây giờ, vẫn chưa chắc kịp. Kẻ đó đã đánh hơi được, hắn sẽ không ngồi yên.”
“Nhưng nếu chần chừ, những thứ cần tìm có khi đã bị đốt sạch.” – Giọng nàng không lay động, ánh mắt như hồ thu phẳng lặng.
Hắn mím môi, rồi chậm rãi gật đầu:
“Ta không để cô đi một mình. Nhưng cô phải biết giữ lấy mạng mình trước, vì không phải lúc nào ta cũng đến kịp.”
Nguyệt Ca gói mảnh thư cẩn thận, đặt vào túi vải lót gấm:
“Ta không cần ngươi hứa sẽ bảo vệ. Chỉ cần lần này, đừng để ta quay đầu lại… mà không còn thấy ai ở phía sau.”
Nàng nói khẽ, nhưng không quay đầu lại. Tịch Vân im lặng, ánh mắt thoáng qua một nét trầm mặc.
Ánh sáng đầu tiên vừa rọi xuống ngạch cửa, cả hai rời khỏi thư phòng như thể phía sau chẳng còn gì đáng lưu luyến. Phía đông, trời đang dần sáng.
Đón đọc phần tiếp theo tại Blog Yuumon.
(1) Dịch nghĩa: Bảy năm chôn bản án, hai lòng vướng bụi tàn. Chung đèn đâu bóng cũ, ai thấu nỗi xưa oan ?
© 2025 Yuumon.
Bản quyền nội dung thuộc về Yuumon. Vui lòng không sao chép, chỉnh sửa, hoặc đăng tải lại dưới bất kỳ hình thức nào mà không ghi rõ nguồn. Nếu trích dẫn, xin vui lòng dẫn link về bài viết gốc tại: www.yuumon.com